Thấu cảm (empathy) là năng lực và phẩm chất cho phép người ta cảm nhận và thấu hiểu những gì kẻ khác đang trải nghiệm. Về mặt chữ nghĩa, nó hàm ý “cùng với [em-] nỗi đau đớn [-pathos]” như nỗi đớn đau mà ai đó đang gánh chịu.
Thấu cảm không thuần túy chỉ là nỗi đớn đau về mặt cảm xúc; nó còn là sự thấu hiểu rất ý thức những gì đang diễn tiến ở người khác; kiểu như, mình đi bộ với đôi giày của họ.
Thấu cảm kết nối mọi người với nhau và thắt chặt thêm mối dây xã hội.
Trong một nghiên cứu đăng trên Journal of the International Neuropsychological Society nhóm tác giả thấy, 31% người lớn bình thường thể hiện các điểm số thấu cảm về mặt cảm xúc thấp theo Thang đo Cân bằng Thấu cảm Cảm xúc (BEES).
Con số này thực ra không gây ngạc nhiên lắm, bởi nó chứng tỏ một lượng khá bình thường về điểm số thấu cảm (ví dụ, chừng 2/3 người có điểm số thấu cảm trên trung bình).
Những gì bất ngờ nằm ở các bệnh nhân bị tổn thương não bộ (TBI), 61% mang điểm số BEES thấp, tức là năng lực thấu cảm với kẻ khác ở những người này thấp hơn nhiều. Ngoài chuyện đó ra, nhóm tác giả công trình nghiên cứu không phát hiện có mối quan hệ giữa mức tổn thương não trầm trọng và năng lực thấu cảm; các tác giả cũng không thấy mối liên kết nào giữa điểm số thấu cảm với sự thể hiện trong các test tâm lý thần kinh.
Khám phá này thêm lần nữa, tiếp tục không tìm thấy mối liên quan giữa mức độ tổn thương não trầm trọng với điểm số thấu cảm. Ngoài ra, điểm số thấu cảm thấp ở bệnh nhân TBI cơ chừng đã không dự báo được thông qua các điểm số đo lường về mặt cảm xúc, chẳng hạn khi tiến hành làm Bảng kiểm Trầm cảm Beck (BDI).
Các kết quả nêu trên tạo nên nhiều điều đáng chú ý. Dường như TBI, bất kể sự ngặt nghèo ít nhiều thế nào, đều làm trục trặc chức năng của não bộ; tỷ dụ, gián đoạn họat động ở các vùng thuộc trán (frontal), hệ viền (limbic) và vận mạch (circuitry)– vốn liên quan tới sự thấu cảm.
Cần biết rằng, các thùy trán hay bị phá hủy trong TBI. Nó lý giải tại sao nhiều bệnh nhân TBI bị hủy hoại thùy trán thì thường cùn mòn hoặc tỏ ra vô cảm (apathetic). Đa số bệnh nhân TBI bị hỏng hóc phần trán cũng gặp khó khăn khá lớn khi tương tác với người khác cho thật thích hợp. Do vậy, nói chung TBI ngăn cản việc nhận thức xã hội (social cognition).
Một diễn đạt khác là những đối tượng ít thấu cảm thường bắt đầu dễ trải nghiệm các dấu hiệu tổn thương não TBI. Nghĩa là, có thể do nhân cách hoặc những nguyên do khác dẫn tới các hành vi nguy cơ mà đến lượt nó, tạo ra các tổn thương não TBI.
Nhóm tác giả nghiên cứu đã không tiếp nhận các bệnh nhân TBI dưới 22 tuổi (khi bộ não và những điều chỉnh về mặt cảm xúc vẫn tiếp tục diễn tiến) nhằm giảm thiểu con số đối tượng TBI gây ra các hành vi nguy cơ.
Tuy vậy, dù đo lường mức độ thấu cảm trước và sau khi mắc TBI cũng không thể bác bỏ được diễn dịch này. Trong bất kỳ trường hợp nào, nhóm tác giả càng ngày càng phát hiện nhiều bằng chứng thậm chí bị tổn thương não bộ tương đối nặng đã để lại các biến chứng và tác động khác biệt nhau lên đối tượng.
Lời cuối, xin đừng quên là các tác giả không thực sự cân nhắc tới tính ‘độc nhất’ của mỗi một người mắc TBI.